Trong những biến động của thị trường với nhiều mặt hàng thiết
yếu tăng giá, vẫn có một số doanh nghiệp dược phẩm đã có những sáng kiến
cải tiến công nghệ, hợp lý hóa sản xuất để ổn định giá thành sản phẩm,
trong đó có công ty TNHH Thiên dược. Tạp chí Dược & Mỹ phẩm- cơ quan
ngôn luận của Cục Quản lý dược – Bộ Y tế, đã có cuộc trò chuyện trước
thềm năm mới với TS.DS Nguyễn Thị Ngọc Trâm- giám đốc công ty.
Từ khi sản phẩm của công ty có mặt trên thị trường đến nay, hầu như vẫn
giữ được mức giá bán ra ổn định. Vậy công ty làm thế nào để giữ được mức
giá này, trong khi nhiều khoản chi phí trong sản xuất có xu hướng ngày
càng tăng?
Tạp chí dược & Mỹ Phẩm T03- 2012
23/03/2012
|
Hiện nay giá nguyên phụ liệu tăng hơn 30% nhưng giá
sản phẩm do công ty chúng tôi sản xuất không tăng quá 10% là do đã chủ
động về nguồn nguyên liệu làm thuốc, cải tiến công nghệ và tổ chức quản
lý tốt các khâu sản xuất, tiết kiệm nguyên phụ liệu, nhân công để giảm
giá thành sản phẩm nhưng vẫn đảm bảo sản phẩm luôn luôn có chất lượng
cao, có thể kể đến một trong số sản phẩm của Công ty chúng tôi đang sản
xuất có CRILA – thuốc điều trị u xơ tử cung, phì đại lành tính tuyến
tiền liệt và hai sản phẩm thực phẩm chức năng viên nang CRILIN và trà
túi lọc Trinh nữ hoàng cung, hỗ trợ điều trị các bệnh khối u khác như u
nang buồng trứng, u vú… Thuốc CRILA được sản xuất từ nguồn nguyên liệu
được thu hái tại vùng trồng TNHC Long Thành – Đồng Nai được nuôi trồng,
thu hái theo tiêu chuẩn GACP – WHO. CRILA còn được sản xuất tại nhà máy
của công ty đạt tiêu chuẩn GMP (thực hành sản xuất thuốc tốt), GLP (thực
hành kiểm nghiệm thuốc tốt), GSP (thực hành bảo quản thuốc tốt) tại khu
công nghiệp Nam Tân Uyên, tỉnh Bình Dương với số đăng ký VD-15304-11.
Nguồn nguyên liệu để sản xuất viên CRILA là cao khô alcaloid toàn phần
được chiết xuất từ lá của cây Trinh nữ hoàng cung (TNHC) có tên khoa học
Crinum latifolium L. Để tạo ra một viên thuốc an toàn, chất lượng, hiệu
quả, có giá thành thấp và ổn định giá trong suốt 6 năm qua, Công ty
chúng tôi đã chủ động xây dựng và phát triển vùng trồng TNHC tại Long
Thành, Đồng Nai. Trong suốt 20 năm với một quy trình khép kín, từ khâu
chọn giống, thuần hóa và được trồng trên một vùng ổn định, nghiên cứu về
thành phần hóa học, nghiên cứu chiết xuất, độc tính dược lý, bào chế và
lâm sàng đã tạo ra sản phẩm thuốc CRILA. Từ năm 2005, Cục Quản lý dược
đã cho phép CRILA lưu hành toàn quốc.
|
Kể từ đó cho đến nay, CRILA được
người bệnh tin dùng vì hiệu quả điều trị cao, an toàn với người bệnh và
có giá thành phù hợp với thu nhập của người lao động Việt Nam. Tuy
nhiên, chúng tôi vẫn luôn theo dõi kết quả điều trị bệnh của CRILA trên
thị trường trong nước và quốc tế để không ngừng nâng cao chất lượng của
sản phẩm.
Hiện nay Bộ Y tế đang phát động phong trào lớn “Người Việt Nam ưu
tiên sử dụng thuốc Việt Nam”, trong khi thuốc sản xuất trong nước mới
đáp ứng khoảng 50% nhu cầu sử dụng của xã hội, 90% nguyên liệu cho sản
xuất tân dược và 85% nguyên liệu sản xuất đông dược còn phải nhập khẩu.
Theo bà, làm thế nào để tăng tỷ lệ thuốc sản xuất trong nước trên thị
trường ?
Tại hội nghị “Phát triển dược liệu và sản phẩm thuốc quốc gia” năm 2010,
Phó Thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân đã đề nghị 4 nhà (nhà nước, nhà nông,
nhà khoa học, nhà sản xuất) cùng bắt tay vào cuộc. Đó là sự quan tâm của
nhà nước đến sự phát triển ngành dược liệu Việt Nam, đặc biệt chú trọng
đến phát triển các cây thuốc quý để tạo nguồn nguyên liệu sản xuất
thuốc từ dược thảo trong nước, góp phần bình ổn giá thuốc, chủ động
nguồn thuốc trong nước, phục vụ sức khỏe nhân dân. Việc kết hợp của 4
nhà sẽ đẩy mạnh sự phát triển dược liệu và tạo ra những sản phẩm thuốc
mới trong nước. Bởi vì phải có sự hỗ trợ của nhà nước thì mới có được
những vùng trồng lớn hàng trăm, hàng nghìn héc-ta, đi kèm với sự hỗ trợ
đất trồng, tài chính của các ngân hàng nhà nước và nhà nước sẽ đưa ra
chủ trương chính sách khuyến khích các nhà khoa học nỗ lực nghiên cứu
tìm những loại thuốc mới từ dược liệu Việt Nam. Nhà nước sẽ có chính
sách khuyến khích tạo điều kiện cho các sản phẩm từ những công trình
nghiên cứu khoa học được phổ biến và đưa thông tin đến người bệnh từ
những phương tiện truyền thông của quốc gia. Nhà nông đóng vai trò quan
trọng trong việc tham gia trực tiếp, nông dân là lực lượng lao động
chính để tạo ra nguồn dược liệu. Tiếp đến là vai trò của nhà khoa học
trong nghiên cứu, tạo ra sản phẩm thuốc mới từ những công trình nghiên
cứu khoa học. Các nhà khoa học sau khi nghiên cứu thành công sẽ chuyển
giao công nghệ cho doanh nghiệp để thực hiện sản xuất và phát triển sản
phẩm.
Khi chủ động được nguồn nguyên liệu làm thuốc, chúng ta sẽ tạo ra được
sản phẩm mới từ nguồn nguyên liệu sạch đạt chất lượng cao. Điều ý nghĩa
hơn cả là đưa sản phẩm thuốc đặc trị mang thương hiệu Việt không chỉ
phục vụ bệnh nhân trong nước mà còn tham gia vào thị trường dược phẩm
quốc tế, làm vinh danh đất nước Việt Nam.
Việc công ty Thiên Dược xuất khẩu viên nang CRILA qua một thị trường
“khó tính” như thị trường Mỹ là một tín hiệu vui không chỉ đối với
riêng công ty mà còn là niềm vui chung của ngành Dược nước ta. Xin bà
cho biết tóm tắt quá trình thuần hóa, nghiên cứu và sản xuất thuốc CRILA
từ cây trinh nữ hoàng cung ?
Chúng tôi nhận thức được sự cần thiết phải nuôi trồng, thu hái dược liệu
TNHC theo tiêu chuẩn “Thực hành tốt trồng trọt và thu hái cây thuốc”
theo khuyến cáo của Tổ chức Y tế Thế giới. Thực tế kể từ năm 1990, chúng
tôi đã tiến hành nuôi trồng và thu hái cây TNHC theo tiêu chuẩn GACP –
WHO và đến ngày 13/10/2011, công ty chúng tôi đã công bố và được Bộ Y tế
tiếp nhận. Để thực hiện nuôi trồng, thu hái theo tiêu chuẩn GACP – WHO,
việc đầu tiên là chọn vùng trồng thích hợp với cây TNHC, sau đó trồng
thử nghiệm trên các vùng đất khác nhau từ Bắc đến Nam. Từ kết quả nghiên
cứu trồng TNHC khảo nghiệm trên các vùng đất khác nhau đó, chúng tôi
thấy rằng điều kiện thổ nhưỡng đất pha cát, khí hậu nóng khô, vị trí
vùng trồng cách biển theo đường chim bay khoảng 30 km là cây phát triển
tốt đặc biệt hai tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu, Đồng Nai là cây phát triển tốt và
hàm lượng hoạt chất sinh học cao nhất. Do đó chúng tôi đã chọn địa điểm
phát triển vùng trồng tại Huyện Long Thành, Tỉnh Đồng Nai là vùng trồng
thuận lợi, cách xa đường giao thông lớn 1 km, không bị ô nhiễm bởi khu
dân cư đông người, không gần các nhà máy, xí nghiệp, bệnh viện, khu
nghĩa trang, có khí hậu thích hợp với cây trồng. Cây TNHC là một cây
hoang dại được thuần hóa và chọn giống trên cơ sở nghiên cứu về gen. Ở
Việt Nam có rất nhiều cây náng giống với cây TNHC Việt Nam, việc chọn
đúng giống cây TNHC Việt Nam có tên khoa học Crinum latifolium L. làm
nguyên liệu sản xuất thuốc điều trị phì đại lành tính tuyến tiền liệt và
u xơ tử cung là bước quan trọng. Do đó chúng tôi đã “nghiên cứu đa hình
di truyền tập đoàn các giống TNHC (7 giống) và phát hiện đặc tính di
truyền riêng biệt của cây TNHC (Crinum latifolium L.) Việt Nam có hoạt
tính sinh học ức chế sự phát triển của tế bào u là các alcaloid và
flavonoid được chiết xuất từ lá của cây TNHC Việt Nam. Bởi vậy chúng tôi
đã tiến hành thu thập các cây náng lá rộng có ở Việt Nam và tiến hành
nghiên cứu chọn giống dựa trên cơ sở khoa học là kết quả nghiên cứu ADN,
nghiên cứu sự khác biệt thành phần hóa học và tác dụng sinh học của cây
TNHC với các cây náng khác có ở Việt Nam và các cây náng có tên khoa
học Crinum latifolium L. ở Ấn Độ, Thái Lan, Campuchia… Sau khi chọn đúng
giống, chúng tôi tiến hành nhân giống theo phương pháp nhân giống tự
nhiên và phát triển vùng trồng TNHC. Để hàm lượng hoạt chất sinh học
alcaloid và flavonoid ổn định và tạo ra nguồn dược liệu sạch, chúng tôi
đã xây dựng một quy trình chăm sóc, nuôi trồng theo đặc tính riêng biệt
của cây TNHC: nguồn phân bón cho cây từ bò ăn cỏ tự nhiên, không sử dụng
các loại phân bón hóa học, thuốc trừ sâu, phải bắt sâu bằng tay hoặc
diệt sâu bằng pheromon là chất tổng hợp có cấu trúc hóa học giống như
chất chiết được từ sâu cái dùng làm mồi nhử đặt vào bẫy để bắt sâu đực
ngăn chặn sâu cái thụ tinh đẻ trứng, sinh sản sâu con, nước tưới đạt Quy
chuẩn kỹ thuật quốc gia về chất lượng nước ăn uống QCVN 01: 2009/BYT do
Bộ Y tế ban hành. Do đó, viên nang CRILA được sản xuất từ cây TNHC có
hiệu quả điều trị cao đối với bệnh u xơ tử cung, u xơ tuyến tiền liệt.
Căn cứ vào kết quả thử nghiệm lâm sàng theo quy chế 371 của Bộ Y tế tại
các Bệnh viện qua 3 giai đoạn: Viện Lão khoa TW, Bệnh viện Y học cổ
truyền TW, Bệnh Viện Phụ Sản TW, Bệnh viện Y học cổ truyền TP.HCM, Bệnh
Viện Từ Dũ. Kết quả Bộ Y tế đã công nhận hiệu quả điều trị của viên nang
CRILA đối với bệnh u xơ tuyến tiền liệt đạt 89,18% và u xơ tử cung đạt
79,5%. Nhiều người bệnh giảm thể tích tuyến tiền liệt, cải thiện tiểu
tiện tốt, giúp nâng cao chất lượng cuộc sống. Viên nang CRILA không ảnh
hưởng đến hoạt động tình dục, vì khi chiết xuất đã loại bỏ những chất
bất lợi cho cơ thể. Đối với u xơ tử cung, hiệu quả điều trị đạt kết quả
cao và các bệnh nhân có u xơ tử cung đã không phải đi phẫu thuật, giảm
chi phí cho người bệnh và không làm ảnh hưởng đến sức khỏe.
Sau thành công của viên CRILA, bà có nhận được những đề nghị nhượng quyền sáng chế của các hãng dược phẩm lớn của nước ngoài ?
Các hãng dược phẩm nước ngoài luôn luôn theo dõi các thông tin về việc
sáng chế và tạo ra những sản phẩm thuốc mới. CRILA là thuốc tạo ra từ
công trình nghiên cứu về TNHC, có hiệu quả cao, sản xuất với công nghệ
tiên tiến là viên thuốc đầu tiên trên thế giới chữa u xơ tử cung từ dược
thảo, so với Zoladex, Decapeptyl: hai loại thuốc này ức chế tuyến yên
chế tiết FSH nên buồng trứng không chế tiết estrogen làm cho u xơ bé đi,
nhưng không thể thay thế phẫu thuật vì tác dụng không thường xuyên và
tạm thời. Sau ngừng điều trị 6 tháng u to trở lại như ban đầu. Hiệu quả
điều trị của CRILA: đạt 79,5%, u xơ bé đi sau 3 tháng điều trị, kích
thước khối u giảm xuống rõ rệt có thể thay thế được cho phẫu thuật vì
thể tích khối u giảm đến mức bình thường. Zoladex, Decapeptyl có các
nhược điểm như: gây bốc hỏa, khô âm đạo và nguy cơ loãng xương tăng lên
nếu uống thuốc kéo dài. CRILA là thuốc từ dược thảo nên không có tác
dụng không mong muốn như hai loại thuốc trên. Do đó các nhà sản xuất lớn
họ quan tâm đến CRILA, trong đó có cả nước Mỹ nhưng mục tiêu nghiên cứu
của tôi không phải để bán bản quyền. Tôi muốn sản phẩm Crila là sản
phẩm từ công trình nghiên cứu của người Việt Nam làm ra, mang thương
hiệu Việt, trước tiên là phục vụ người bệnh trong nước, sau đó xuất khẩu
tạo công ăn việc làm cho người lao động, góp phần xây dựng đất nước
ngày càng giàu mạnh.
Viên thuốc CRILA đã trở thành thương hiệu. Trên thương trường, điều đó cũng đồng nghĩa với việc phải đối mặt với sự cạnh tranh ?
Bất cứ sản phẩm nào khi ra thị trường đều có sự cạnh tranh, nhưng đối
với thuốc CRILA chúng tôi nghĩ rằng để có được một sản phẩm thuốc có quá
trình nghiên cứu 15 năm mới tạo ra sản phẩm từ khâu chọn giống, nuôi
trồng thu hái theo tiêu chí GACP – WHO, cũng như việc nghiên cứu theo
dõi đánh giá sự biến đổi hàm lượng hoạt chất trong cây và xác định thời
điểm thu hái để lá cây có hàm lượng hoạt chất cao nhất, các thông số
phân bón, nước tưới và các yếu tố khác, cũng như công nghệ chiết xuất
với kỹ thuật và phương pháp nghiên cứu hiện đại đã được áp dụng cho quá
trình nghiên cứu và tạo ra sản phẩm Crila và yếu tố đất trồng, khí hậu
ảnh hưởng đến hàm lượng hoạt chất sinh học. Do đó, chúng tôi thấy rằng
việc tạo ra một sản phẩm thứ hai có hiệu quả điều trị như Crila có lẽ
không phải là dễ đạt được và nếu có thì cần phải có một thời gian dài
vài chục năm sau. Nếu đối tác cạnh tranh là người nước ngoài điều đó
càng không đáng lo ngại vì khi nghiên cứu nếu di thực cây TNHC Việt Nam
sang các nước khác không có các yếu tố thành phần đất trồng, khí hậu
giống như ở Bà Rịa Vũng Tàu, Long Thành thì cũng khó có hàm lượng hoạt
chất như mong muốn. Hơn nữa, cây TNHC nhân giống bằng phương pháp cấy mô
không có hàm lượng hoạt chất sinh học như cây TNHC nhân giống theo
phương pháp nhân giống vô tính mà chúng tôi đã thực hiện từ năm 1990 cho
đến nay.