Từ
những năm 90 của thế kỷ trước, khi cây Trinh nữ hoàng cung (Crinum
latifolium L.), họ Náng (Amaryllidaceae), được sử dụng làm thuốc trị các
bệnh u xơ tử cung và phì đại lành tính tuyến tiền liệt thì người ta
luôn nghĩ rằng đó chỉ là một loài thuần nhất và công dụng của nó dù lấy ở
đâu thì cũng đều như nhau. Cho đến nay, nhiều công ty Đông dược, thầy
thuốc Y học cổ truyền và những người bệnh đang tự sử dụng cây này làm
thuốc cũng đều nghĩ như vậy. Nhưng thực tế lại không phải như vậy! TS.
NTN. Trâm và cộng sự qua nghiên cứu các mẫu cây Trinh nữ hoàng cung thu
thập ở Việt Nam đã phát hiện có một mẫu đặc biệt chứa nhiều hợp chất hóa
học và tác dụng sinh học khác với những mẫu còn lại được gọi là Trinh
nữ hoàng cung (không kể những mẫu bị lấy nhầm với các loài “náng” khác).
Mẫu cây này đã được chọn lọc để nghiên cứu trồng trọt, hóa học, tác
dụng sinh học và phát triển trên quy mô lớn để lấy nguyên liệu sản xuất
thuốc CRILA của Cty TNHH Thiên Dược.
Về mặt phân loại, kết hợp các đặc điểm thực vật học và thành phần hóa
học cho thấy mẫu cây đã được chọn lọc nói trên là một ‘Thứ’ mới (new
variety) của loài Trinh nữ hoàng cung ở Việt Nam. Nó được đặt tên là
‘Trinh nữ crila’ (Crinum latifolium L. var. crilae Tram & Khanh).
Đây là một đóng góp mới cho khoa học, đã được công bố trong Tạp chí Sinh
học của Viện KH&CN Việt Nam, tập 34, số 2, tr. 190-193, 6/2012. Cây
Trinh nữ crila có đặc điểm thực vật như sau:
Cây thảo sống nhiều năm, cao khoảng 30-40 cm, có thân hành gần hình cầu,
đường kính 9-12cm. Thân giả ngắn do các bẹ lá ôm sát nhau tạo thành. Lá
mọc toả quanh gốc, hình dải mỏng, dài 40-50(-90)cm, rộng 4-6(-10)cm,
mép lá nguyên, lượn sóng, hai mặt gốc phiến lá không màu, có bẹ. Trục
cụm hoa đậm dài 40-50cm, mặt cắt có hình bầu dục, kích thước 1x1,5cm,
tận cùng mang 6-8 hoa gần như không cuống, trông như một tán giả, bên
ngoài có tổng bao lá bắc gồm 2 phiến mỏng hình tam giác, dài khoảng
5-7cm, đáy rộng khoảng 2,5-3cm. Nụ hoa sắp nở có hình thoi, đầu nhọn,
dài 10-11cm, rộng 3,5cm. Hoa mẫu 3. Bao hoa hình phễu: phần dưới dính
liền thành ống hơi cong, màu lục nhạt, dài 7-8cm, đường kính 5-6mm; phần
trên là các thuỳ của đài và tràng rời nhau. Khi hoa nở, chỉ có phần
trên loe rộng thành hình phễu, các thuỳ của lá đài và cánh hoa tách ra
và uốn cong ra phía ngoài. Ba lá đài ở vòng ngoài rộng 2,5-2,7cm, mặt
ngoài có vệt màu đỏ tía nhạt chạy dọc ở giữa. Ba cánh hoa xếp xen kẽ ở
vòng trong rộng 2,5-2,7cm, mặt ngoài cũng có vệt đỏ tía nhạt chạy dọc,
rộng bằng 1/3 chiều rộng cánh hoa. Sáu nhị đính ở họng của bao hoa; chỉ
nhị mảnh và cong, dài 7-8cm; bao phấn dài 1-2cm, đính lưng. Bầu dưới,
hình trụ đến hình trứng ngược, dài 10-15mm, rộng 7-8mm; vòi nhuỵ rất
mảnh như sợi chỉ, dài 19-20cm, phần trên có màu đỏ tía, núm nhuỵ nhỏ.
Quả gần hình cầu. Mùa hoa: tháng 6-8.
Bảng dưới đây cho thấy sự khác nhau giữa cây Trinh nữ crila với cây Trinh nữ hoàng cung:
Loài
Đặc điểm
|
Trinh nữ hoàng cung
(Crinum latifolium L.)
|
Trinh nữ crila
(Crinum latifolium L. var. crilae Tram & Khanh)
|
Gốc phiến lá |
Mặt trên có màu tía nhạt |
Hai mặt không màu |
Lá đài |
Mặt trong có vệt màu đỏ tía nhạt chạy dọc ở giữa |
Mặt trong không màu, mặt ngoài có vệt màu đỏ tía nhạt chạy dọc ở giữa |
Cánh hoa |
Cả hai mặt đều có vệt đỏ tía nhạt |
Mặt trong không màu, mặt ngoài có vệt đỏ tía nhạt chạy dọc, rộng bằng 1/3 chiều rộng cánh hoa |
|
|
|
Hình 1: Cây Trinh nữ crila có hoa.
|
Hình 2: Hai mặt gốc phiến lá không màu
|
Hình 3: Lá đài (trái) và cánh hoa (phải) - mặt trong (hàng trên), mặt ngoài (hàng dưới).Nhị (dưới cùng
|
Về thành phần hóa học của hai cây này cũng khác nhau. Theo NTN. Trâm và
cs., ngoài những alcaloid chính có trong cây Trinh nữ hoàng cung như
ambellin, lycorin, pratorin (hippadin), crinamidin, powellin,
1,2--epoxyambellin, các hợp chất glucan A, B..., cây Trinh nữ crila còn
có thêm những alcaloid sau: 9-octadecenamidb,
dihydro-oxo-demethoxyhaemanthamin, augustamin, oxoassoanin, crinan-3-ol,
buphanidrin, undulatin, 6-hydroxyundulatin, 6-hydroxybuphanidrin,
6-hydroxypowellin, kaempferol, 4’-hydroxyl-7-methoxyflavan, β-sitosterol
và stigmasterol. Những hoạt chất này làm cho cây Trinh nữ crila có hiệu
quả chữa bệnh khác với cây Trinh nữ hoàng cung mọc phổ biến ở Việt
Nam.
Tóm lại, trong quần thể những cây gọi là Trinh nữ hoàng cung không đồng
nhất. Trong đó đã xác định được một ‘Thứ’ mới, đó là ‘Trinh nữ crila’ có
thành phần hóa học và tác dụng chữa bệnh khác với các cây Trinh nữ
hoàng cung khác. Do đó, việc tìm kiếm và tự sử dụng cây Trinh nữ hoàng
cung làm thuốc cần chú ý tính chính xác để đảm bảo hiệu quả chữa bệnh
của nó.
TSKH. Trần Công Khánh