Nghiên cứu trong nước
Ở Việt Nam đã có nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu về căn bệnh này. Theo các tác giả trên, việc điều trị nội khoa có nhiều ưu điểm thuận lợi cho người bệnh vì phương pháp điều trị ngoại khoa có nhiều nhược điểm. Nếu bệnh nhân bị phì đại lành tính tuyến tiền liệt kết hợp với một số bệnh khác, hay tình trạng bệnh nhân quá nặng, có thể có nhiều rối loạn chức năng sau mổ, nhất là ở những người trẻ tuổi, do đó phần lớn bệnh nhân đều muốn tìm đến phương pháp điều trị nội khoa.
Để có thuốc điều trị hiệu quả cao và khắc phục được nhược điểm của những biệt dược đang có trên thị trường, như đau đầu, chóng mặt, choáng váng và ảnh hưởng đến quan hệ tình dục, trong những năm gần đây, ở Việt Nam đã có nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu từ dược liệu và đặc biệt đáng quan tâm trong số đó là cây TNHC, nhằm tìm được những hoạt chất có tác dụng sinh học kháng ung bướu, để có nguyên liệu sản xuất thuốc.
Chúng tôi đã xác định được cách trồng trọt, loại đất trồng, xử lí sâu bệnh, tuổi của cây và thời điểm thu hái để nguyên liệu có tác dụng sinh học điều trị ung bướu. Bên cạnh đó là chứng minh trong dịch chiết bằng nước nóng từ lá cây TNHC có chứa những yếu tố hoạt hoá tế bào lympho T, làm cho tế bào lympho T phát triển và hoạt động .
Các tác giả Nguyễn Thị Ngọc Trâm, I.Yanchev, E.Zvetkova đã tiến hành thử nghiệm gây ung thư trên chuột đực giống Wistar từ 50 đến 55 ngày tuổi, bằng cách cấy dưới da chất hoá học gây ung thư 20-methylcholanthren, tiến hành thí nghiệm cho uống những chất chiết bằng nước nóng của cây TNHC. Kết quả cho thấy, những chất này đã làm chậm sự tăng trưởng khối u của chuột thí nghiệm. Tác giả còn chứng minh thêm được 4 phân đọan alcaloid có tác dụng gây độc tế bào ung thư da, ung thư màng tử cung, ung thư cơ tim có kết quả dương tính mạnh.
Để có thuốc hỗ trợ cho điều trị u xơ tuyến tiền liệt và tránh nhầm lẫn cây TNHC với các cây náng khác có ở Việt Nam, công ty dược liệu Trung ương II đã sản xuất trà túi lọc trinh nữ hoàng cung từ năm 1998. Năm 2001, tại Bệnh viện Hữu Nghị, BS. Nguyễn Xuân Hướng đã sử dụng nước sắc lá Trinh nữ hoàng cung của công ty dược liệu trung ương 2 cung cấp để điều trị u xơ tuyến tiền liệt cho các bệnh nhân, hiệu quả 92,68%
Tác dụng hỗ trợ điều trị ung thư của Trinh nữ hoàng cung
Cây trinh nữ hoàng cung (Crinum latifolium L.) đã được nhân dân ta sử dụng để điều trị u xơ tuyến tiền liệt (phì đại lành tính tuyến tiền liệt) và u xơ tử cung, ngoài ra còn có người sử dụng để điều trị bệnh ung thư như ung thư vú, tử cung, dạ dày, phổi và tuyến tiền liệt. Trong những năm qua đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu về cây thuốc quý hiếm này.
Yui và cộng sự đã chứng minh alcaloid lycorine, hoạt chất chính từ TNHC có tác dụng kích thích tế bào lympho T trong ống nghiệm và trên sinh vật hoạt động và phát triển. Các tác giả Nguyễn Thị Ngọc Trâm, E. Zvetkova và cộng sự cũng đã chứng minh dịch chiết nước nóng từ lá cây TNHC Việt Nam có thể kích thích hữu hiệu sự sinh sản của tế bào lympho T và đặc biệt có tác dụng kích thích trực tiếp lên các tế bào TCD3, TCD4 invitro . Nguyễn Thị Ngọc Trâm, I.Yanchev và cộng sự cũng đã tiến hành thử nghiệm gây ung thư trên chuột đực Wistar 50 - 55 ngày tuổi, bằng cách cấy dưới da chất hóa học gây ung thư 20-methylcholantrene và tiến hành thí nghiệm cho uống những chất chiết bằng nước nóng của cây TNHC. Kết quả cho thấy dịch chiết này đã làm chậm sự tăng trưởng khối u thực nghiệm. Ở Ấn Độ, tác giả Ghosal khẳng định một số alcaloid từ TNHC như crinafoline, crinafolidine đã được thử nghiệm với tế bào ung thư và cho kết quả dương tính. Để chứng minh tác dụng của viên Crila, một loại thuốc được chiết xuất từ lá cây TNHC (đã được dùng trên bệnh nhân u xơ tuyến tiền liệt và u xơ tử cung) có hỗ trợ điều trị ung thư (tác dụng tăng miễn dịch (MD) trên thực nghiệm, khả năng chữa tình trạng suy tủy xương của bệnh phóng xạ cấp, bán cấp và có thể loại bỏ được tác dụng phụ nặng nề của hóa trị liệu) hay không, chúng tôi đã tiến hành: dùng mô hình chiếu tia xạ bán cấp cho chuột nhắt để gây suy giảm dòng tế bào tủy và dòng tế bào lympho rồi điều trị với viên Crila, sau đó đánh giá khả năng hồi phục dòng tế bào lympho T (cả về số lượng và chức năng tiết hai CK (dịch chiết từ tế bào) chủ yếu của MD chống ung thư: lL-2 và lFNa), và khả năng hồi phục dòng tế bào tủy của những chuột bị chiếu tia gamma này.
Thuốc dùng trong nghiên cứu này là viên nang Crila 250 mg của Công ty cổ phần dược liệu TW2, được bào chế từ những alcaloid có hoạt tính sinh học điều trị u xơ tuyến tiền liệt (phì đại lành tính tuyến tiền liệt) đang được lưu hành trên toàn quốc với số đăng ký VNB-3391-05. Liều sử dụng cho chuột thí nghiệm là 1250mg/kg cân nặng/ngày, gấp 30 lần liều sử dụng cho người. Thuốc được sử dụng trong 6 ngày song song với 6 ngày chiếu tia xạ, cho uống thuốc một lần trong ngày sau khi chiếu xạ. Giết chuột ở ngày thứ 7 để làm các xét nghiệm đánh giá số lượng và chức năng tế bào MD, đồng thời đánh giá số lượng một số tế bào dòng tủy chủ yếu.
Tác dụng của thuốc trên tế bào dòng lympho
Sự giảm sút nặng nề của dòng tủy và dòng lympho xảy ra ở chuột nhắt chiếu tia cấp, bán cấp là các biến đổi đã được tất cả các nhà nghiên cứu y học và thực hành lâm sàng khẳng định. Kết quả thu được của chúng tôi phù hợp với các tác giả đã công bố trước đây. Khi nhận định bằng hình thái học, chủ yếu dựa vào kích thước tế bào thì không phát hiện được sự thay đổi của bạch cầu ái toan và nhất là bạch cầu diệt tự nhiên (NK – natural killer). Nhưng khi sự nhận dạng được dựa trên dấu ấn MD (kháng nguyên CD16+ / 56+ của NK) rõ ràng, chính xác thì tia gamma đã làm NK giảm sút đặc biệt có ý nghĩa, cả trong máu ngoại vi và trong lách, với p đều <0,001.
Các tế bào NK được phát hiện vào những năm 1980, khi người ta thấy máu có khả năng gây độc với virus, với các tế bào máu gốc và tế bào ung thư. Dưới tác dụng của tế bào NK, các tế bào ung thư máu, myeloma, carcinoma, sarcoma, melanoma của người bị dung giải hay ức chế. Các chuột Beige có hoạt tính NK kém, rất nhạy cảm với bệnh ung thư máu.
NK được chính thức xem như một quần thể chống ung thư mạnh của MD bẩm sinh không đặc hiệu vì không cần mẫn cảm trước với kháng nguyên. Chuột chiếu tia, uống viên Crila làm số lượng NK hồi phục về trị số sinh học.
Các tế bào TCD4, TCD8 là các quần thể gây độc với virus và với ung thư, thông qua 2 CK quan trọng nhất là lL-2 và TNFa hay là trực tiếp gây dung giải tế bào ung thư và tế bào nhiễm virus. Liều tia xạ đã sử dụng trong thực nghiệm đã gây giảm có ý nghĩa đặc biệt toàn bộ các nhóm tế bào lympho, đặc biệt dòng T và NK. Số lượng cả hai loại TCD8a (CD8a/a) và TCD8b (CD8a/b) đều giảm mạnh ở cả lách và máu ngoại vi. TCD8b là quần thể chủ yếu , chiếm đa số các tế bào tuyến ức chín và tế bào T chín ở máu ngoại vi, được giới hạn trong MHC lớp 1, có thể đại diện cho TCD8. TCD8a là quan thể TCD8 chín chiếm tỷ lệ rất thấp.
Tế bào TCD8 là tế bào gây độc đặc hiệu chính với tế bào ung thư. Ở đây, tia gamma không những gây giảm có ý nghĩa số lượng tế bào của những quần thể này mà chức năng của chúng cũng giảm mạnh, thể hiện bằng giảm lL2. Do TNFa có nhiều nguồn gốc hơn (đại thực bào, tế bào Mast, tế bào lympho) nên hàm lượng của nó vẫn duy trì được.
Khi được điều trị bằng Crila, các quần thể tế bào lympho CD3, CD4, CD8a và CD8b (kể cả NK) ở máu ngoại vi và ở lách được phục hồi cả số lượng, tỷ lệ % và cả chức năng chế tiết lL-2 về gần trị số sinh học. lL-2 có tác dụng làm tăng sinh và tăng biệt hóa tế bào lympho T, hoạt hóa các Tc (T cytotoxic) và hoạt hóa đại thực bào, có vai trò rất quan trọng trong MD chống ung thư.
Hàm lượng TNFa được đảm bảo bằng nhiều nguồn. TNFa có tác dụng hoạt hóa các đại thực bào, bạch cầu hạt và các tế bào gây độc, tăng cường sự dính của bạch cầu với tế bào nội mạc, gây gầy mòn, sốt, cảm ứng sự tiết protein pha cấp, kích thích sự tạo mạch máu, tăng cường sản xuất các phân tử MHC lớp 1. Tác dụng của TNFa vì thế có trên một phổ rộng hơn, trong đó có cả tác dụng gây độc tế bào ung thư, tăng các phân tử MHC lớp một cho tế bào Tc hoạt động, nhằm tiêu diệt các tế bào ung thư. Khi dùng Crila để điều trị cho chuột chiếu tia thì các tế bào đều có xu hướng gây tăng chế tiết, đưa về trị số sinh học hay cao hơn, của cả hai CK nghiên cứu là TNFa và IL-2.
Các cây thuốc điều biến MD khác đã được các tác giả Việt Nam nghiên cứu hầu như chưa khảo sát chức năng tế bào MD, mà mới nghiên cứu sự biến đổi số lượng tế bào MD, trừ cây nhàu, nhưng cũng chỉ khảo sát chức năng chế tiết lL-2 in vitro. Đối với viên Crila - TNHC thì Nguyễn Thị Ngọc Trâm đã nghiên cứu một cách có hệ thống và đầy đủ. Thành phần hóa học có hoạt tính sinh học được tác giả tập trung chủ yếu vào 4 phân đoạn alcaloid và các flavonoid với các tác dụng sinh học đã giới thiệu ở trên, như tăng MD, độc với tế bào ung thư da thực nghiệm bằng 20 - methylcholantrene. Trong nghiên cứu bổ sung lần này đã chứng minh viên Crila từ TNHC có tăng số lượng và tỷ lệ % tế bào MD máu ngoại vi và lách có mang các dấu ấn CD3, CD4, CD8a, CD8b, CD16/56 và tăng khả năng chế tiết IL2 và TNFa của các loại tế bào đơn nhân phân lập ở lách nuôi cấy ngắn ngày (48 giờ) có kích thích bằng PHA.
Lugan và cộng sự (2003) cũng thấy phức hợp polysaccharide-protein của TNHC tăng cường sự chế tiết lL 2 và TNFa ở cả mức độ gen (MRNA) và protein (cytokine) của tế bào MD phân lập từ bệnh nhân ung thư. Siheeja K. và cộng sự (2007) thấy andrographis paniculata và andrographolide làm tăng CTL (cytotoxic T lympho- cyte), tăng sản xuất lL2, TNFa của tế bào T và tăng thời gian sống thêm của chuột mang khối u tuyến ức EL4.
Hy vọng về khả năng tăng cường MD chống ung thư của viên Crila là có cơ sở: các tế bào T lympho tăng cao về số lượng, tỷ lệ ở máu và ở lách, tăng chế tiết đặc biệt lL2 và cả TNFa.
Mới đây, Amandeep Kaur và cộng sự (Ấn Độ, 2006) đã phân lập được một lectin mới từ TNHC, với sắc ký lọc gel P-200 thì lectin mới này có trọng lượng phân tử là 24 kDa và 1 băng peptid với trọng lượng phân tử 12kDa trên SDS-PAGE, chứng tỏ lectin này là một protein dimmer có hai tiểu đơn vị giống nhau. Hoạt tính sinh học của lectin mới này chưa được nghiên cứu đầy đủ.
Tác đụng của viên Crila trên tế bào dòng tủy
Dựa trên kết quả nghiên cứu, có một số gợi ý về khả năng mở rộng diện sử dụng trong điều trị của Crila cho các bệnh phóng xạ cấp và bán cấp, hay các bệnh nhân suy tủy xương do hóa trị liệu ung thư.
Ngoài các tác dụng hồi phục cấu trúc, chức năng tế bào hệ MD như đã trình bày còn thấy các bạch cầu hạt, bạch cầu mono và ưa acid, những tế bào có nguồn gốc tủy xương đều có khả năng hồi phục lên bằng hay gần bằng trị số sinh học. Chỉ có mono là tuy có tăng cao nhưng còn thấp hơn trị số sinh học. Cần thiết phải nghiên cứu sâu hơn và đầy đủ hơn về cấu trúc và chức năng của các tế bào có nguồn gốc tủy dưới tác dụng của Crila để có thể mở rộng diện chỉ định điều trị, đặc biệt trong các bệnh phóng xạ cấp, bán cấp, loại bỏ tác dụng phụ của hóa trị liệu ung thư, điều trị các bệnh nhiễm trùng, nhiễm virus.
Như vậy, có thể kết luận: viên Crila sản xuất từ dịch chiết alcaloid toàn phần của lá cây TNHC, trên chuột bị chiếu tia gamma thực nghiệm, có các tác dụng sau đây: hồi phục, tăng sinh tế bào dòng lympho cả số lượng dòng T, NK và tăng chức năng chế tiết lL2, TNFa; có khả năng hồi phục bạch cầu hạt trung tính và bạch cầu ưa acid của dòng tủy về trị số sinh học.
Hỏi và đáp về cây Trinh nữ hoàng cung
Trồng cây trinh nữ hoàng cung trong chậu có khác gì so với trồng ngoài đất?
Cây THNC trồng trong chậu không có hoạt chất điều trị bệnh ung bướu như cây TNHC trồng ngoài ruộng đồng.
Sử dụng trinh nữ hoàng cung như thế nào cho đúng?
Đối với u lành thì việc sử dụng lá TNHC để hỗ trợ điều trị là tốt, nhưng phải uống đúng liều thì mới có tác dụng. Tôi hướng dẫn các bạn cách sử dụng như sau: nếu nhà có trồng cây TNHC (đúng là cây thật), có thể dùng 10 lá (khô)/ngày, cắt thành từng đoạn ngắn, sao khô, hạ thổ, sắc lấy nước uống. Cách sắc: đun sôi 3 bát ăn cơm nước, thả lá THNC (khô) vào, đậy nắp, đun trong 15 phút với lửa nhỏ, đến khi chỉ còn một bát, chia làm 3 lần uống trong ngày sau bữa ăn 1 tiếng đồng hồ, bã còn lại tiếp tục ngâm nước sôi uống thay nước trong ngày. Uống liên tục trong 63 ngày. Nếu trong nhà không có cây TNHC thì các bạn nên mua trà túi lọc TNHC của Trung tâm nghiên cứu phát triển sản xuất dược phẩm CRINA thuộc Công ty cổ phần dược liệu TW 2, dùng với liều 10 gói/ngày theo đúng hướng dẫn sử dụng trên bao bì.
Trinh nữ hoàng cung có chữa được ung thư dạ dày?
Bệnh nhân ung thư dạ dày đã được bệnh viện ung bướu xạ trị và hóa trị có thể kết hợp dùng lá cây TNHC nhằm tăng sức đề kháng của cơ thể, vì bản thân lá cây TNHC chiết xuất bằng nước nóng có khả năng ức chế sự phát triển của tế bào ung thư, kích thích tế bào lympho-T phát triển và hoạt động. Công trình này đã được nghiên cứu ở Viện hàn lâm Áo và Bungari, đã được công bố trên tạp chí Y học quốc tế.
Trinh nữ hoàng cung có chữa được viêm xoang?
Trong cây TNHC có chất kháng viêm nhưng cho đến nay chưa có nhà khoa học nào chứng minh (qua lâm sàng) về tác dụng này của cây TNHC chữa viêm xoang. TNHC chỉ chữa được bệnh u xơ tuyến tiền liệt và u xơ tử cung (đã qua thử nghiệm lâm sàng).
Uống trinh nữ hoàng cung để phòng chống ung thư có bị vô sinh?
Nếu cây mà các bạn trồng đúng là cây TNHC thì có thể sử dụng lá tươi để uống có tác dụng phòng chống ung thư. Lá cây TNHC không làm ảnh hưởng đến khả năng sinh sản. Có một loại cây náng khác cũng có tên là trinh nữ hoàng cung nhưng là loài của Campuchia, có nửa hoa màu trắng, có mùi thơm như hoa huệ - loại này mới gây vô sinh. Cây TNHC mà chúng tôi nghiên cứu là loại cây Việt Nam có nửa hoa màu trắng có ánh tím. Nếu cần xác định rõ hơn, bạn có thể liên hệ trực tiếp với tôi.