Ngày 21/7/2005, Cục Quản lý
dược (Bộ Y tế) đã chính thức cho phép thuốc Crila - sản phẩm 100% chiết
xuất từ lá cây Trinh nữ hoàng cung - lưu hành tại Việt Nam. Đây là tin
rất vui cho những bệnh nhân bị phì đại tuyến tiền liệt và u xơ tử cung.
Đằng sau thành tựu lớn của y học Việt Nam này, là câu chuyện ly kỳ kéo
dài ròng rã 15 năm của một người phụ nữ xứ Nghệ - tiến sĩ hóa học Nguyễn
Thị Ngọc Trâm, thuộc dòng tộc thi hào Nguyễn Công Trứ.
Hẳn bạn đọc còn nhớ, suốt một thời kỳ
dài trong thập niên 90 thế kỷ trước, những thông tin về tính năng chữa
bệnh của loại cây thuốc có cái tên quý phái là Trinh nữ hoàng cung đã
làm sống dậy hy vọng cho những nam bệnh nhân bị phì đại tuyến tiền liệt
và những phụ nữ bị u xơ tử cung. Ngay sau đó, các nhà khoa học Việt Nam -
đang làm việc trong và ngoài nước - đã nhanh chóng vào cuộc, với mục
tiêu là tìm cách tiếp cận, chinh phục Trinh nữ hoàng cung để từ đó, điều
chế những loại tân dược có khả năng chữa bệnh ung thư.
Nhưng, hơn một thập niên trôi qua mà
mọi chuyện vẫn chưa tiến triển bao nhiêu. Người ta chỉ thấy Trinh nữ
hoàng cung xuất hiện trong Từ điển cây thuốc Việt Nam của tiến sĩ Võ Văn
Chi vào năm 1997. Tuy nhiên ở đó, tiến sĩ Chi cũng chỉ mô tả về một
loài cây mang tên Náng lá rộng (còn gọi là Tỏi lơi lá rộng), thuộc họ
Thủy tiên, có tên khoa học là Crinum latifolium L., với mô tả: "Cây thảo
có hành gần như hình cầu, có cổ ngắn, dày 10-16 cm. Lá nhiều, mỏng,
hình dải, dài 60-90 cm, rộng 7-10 cm, mép hơi nhám. Cán hoa dài 30-60
cm, mang một tán gồm 5-6, có thể đến 10-12 hoa, có mo bao quanh hình tam
giác, dài 7 cm. Hoa có cuống ngắn; phiến hoa dài 7-10 cm, rộng đến 2,5
cm, màu trắng nhuốm hồng".
Nhưng vấn đề cốt lõi, được dư luận hết
sức quan tâm là phần công dụng của "Náng lá rộng" thì tiến sĩ Chi chỉ
cho biết: "Ở Ấn Độ, người ta dùng hành của cây xào nóng giã đắp làm
thuốc trị bệnh thấp khớp; cũng dùng đắp mụn nhọt và áp-xe để gây mưng
mủ. Còn dịch lá dùng làm thuốc nhỏ tai chữa đau tai". Chuyện ở trong
nước thì tiến sĩ Chi đưa vào phần ghi chú: "Hiện nay nhiều người trồng
cây Trinh nữ hoàng cung lấy lá làm thuốc trị viêm tiền liệt tuyến. Chúng
tôi xác định là thuộc loài trên. Cần tiếp tục nghiên cứu".
Đến tháng 9.1999, khi cho xuất bản
công trình "Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam", giáo sư tiến sĩ Đỗ
Tất Lợi - "ông vua" của ngành dược liệu nước nhà - có cập nhật những
thông tin sâu hơn về Trinh nữ hoàng cung. Nhờ tài liệu này của ông mà
nhiều người đã biết được Trinh nữ hoàng cung còn có các tên gọi khác là
Hoàng cung trinh nữ, Tây nam văn châu lan, Thập bát học sĩ và Tỏi Thái
Lan. Và cái tên "Trinh nữ hoàng cung" chính là do cây này được "dùng để
trị bệnh cho những phụ nữ còn trinh tiết được tuyển chọn vào cung vua
nhưng không được vua chú ý nên mắc một số bệnh riêng của phụ nữ sống
trong cùng hoàn cảnh".
Về thành phần hóa học, giáo sư Lợi cho
biết, liên tục trong giai đoạn từ năm 1984 đến năm 1989, một nhà khoa
học ở Ấn Độ tên Ghosal đã dày công nghiên cứu và cuối cùng tách được từ
Trinh nữ hoàng cung một số dẫn chất ancaloit có tác dụng chống ung thư.
Ngoài ra, một số nhà khoa học ở Nhật cũng tìm thấy một số ít ancaloit
khác từ Trinh nữ hoàng cung. Còn tại Việt Nam, giáo sư Lợi ghi nhận: "Từ
những năm 1989 - 1990, nhân dân ta đồn nhau tìm sử dụng lá cây Trinh nữ
hoàng cung để chữa những trường hợp u xơ, ung thư tử cung (đối với phụ
nữ) u xơ và ung thư tiền liệt tuyến (đối với nam giới) với cách dùng như
sau: Ngày uống nước sắc của 3 lá hái tươi thái nhỏ ngắn 1 - 2 cm, sao
khô màu hơi vàng, uống luôn trong 7 ngày, rồi nghỉ 7 ngày, sau đó lại
uống tiếp 7 ngày nữa, lại nghỉ 7 ngày và uống tiếp 7 ngày. Tổng cộng 3
đợt uống là 63 lá, xen kẽ 2 đợt nghỉ uống, mỗi đợt 7 ngày".
Ngoài ra, giáo sư Lợi còn cho biết:
"Một số bệnh nhân uống thêm cùng nước sắc Trinh nữ hoàng cung nước sắc
một "đơn thuốc bổ thận", khi hỏi từ đâu có đơn thuốc này, thì câu trả
lời không rõ ràng, nhưng vì tôi được đọc một bản chụp một tờ báo tiếng
Việt ở nước ngoài gửi về (không thấy ghi tên, ngày tháng), nhiều người
chỉ uống nước sắc trong đơn thuốc này không cùng uống nước sắc Trinh nữ
hoàng cung mà cũng khỏi cho nên tôi cứ ghi lại ở đây để mọi người cùng
theo dõi". Đơn thuốc ấy có tất cả 18 vị, sau khi kiểm tra và lần lượt
xác định đúng các vị, giáo sư Lợi đã tiến hành bào chế thành ba dạng
thuốc, gồm: trà Trinh nữ hoàng cung; trà thuốc bổ thận; trà phối hợp
thuốc bổ thận và Trinh nữ hoàng cung.
Bám sát thông tin về "cây thuốc lạ"
này, từ cuối năm 1999 phóng viên Báo Thanh Niên cũng đã từng lặn lội lên
huyện Long Khánh (tỉnh Đồng Nai), gặp Chủ tịch Hội Y học cổ truyền
huyện và ghi nhận bài thuốc "mỗi ngày uống 2 - 3 lá, uống một tuần lại
nghỉ một tuần" chữa bệnh u xơ tiền liệt tuyến để cung cấp cho bạn đọc.
Thời điểm đó, mặc dù trên thị trường đã xuất hiện một số "mặt hàng Trinh
nữ hoàng cung" nhưng thực ra, việc dùng loại cây thuốc này để chữa bệnh
vẫn còn mang nhiều yếu tố dân gian...
Võ Khối- Bảo Thiên