U vú là loại u thường gặp ở phụ nữ từ độ tuổi 20-50, là 1 dạng u lành tính được hình thành do sự rối loạn nội tiết tố estrogen, progesteron, prolactin dẫn đến việc tăng sinh của một số tế bào vượt ra ngoài sự kiểm soát của cơ thể, tạo nên một khối tế bào thừa, không có chức năng.
-
CÁC LOẠI BỆNH U VÚ LÀNH TÍNH THƯỜNG GẶP
Xơ nang tuyến vú: thường bắt đầu ở phụ nữ độ tuổi sau 30, hay gặp ở lứa tuổi từ 40-50. Đó là một tổn thương lan toả bao gồm nhiều bất thường phối hợp có 3 thành tố chính.
U nang: một túi chứa đầy dịch, trông giống như một bọng nước, phát triển ở giữa mô tuyến vú, với mặt ngoài nhẵn và có rãnh ở mặt trong và bị xơ hóa. Vào thời điểm cơ thể cường estrogen, các tế bào biểu mô tăng sinh trong các ống (tăng sinh ống) và các phân thuỳ (tăng sinh tuyến). Với mức estrogen giảm, biểu mô cuộn xoắn, các ống trở thành nang, các phân thuỳ và vùng đệm tăng tổ chức xơ (tăng biểu mô tuyến xơ cứng và xơ cứng vùng đệm). Số lượng và kích thước của các u nang này thay đổi tuỳ trường hợp và thường xuất hiện ở phụ nữ tiền mãn kinh và biến mất khi mãn kinh. U nang này có thể có hoặc không có những biểu hiện lâm sàng như đau hoặc khó chịu. Đau thường xuất hiện theo chu kỳ khoảng
8 ngày trước khi hành kinh, biến mất sau hành kinh, đau tự nhiên, lan ra hai tay.
Sự tăng sinh kết hợp loạn sản làm tăng nguy cơ ung thư vú lên tới 4-5 lần. Những thay đổi không tăng sinh (tăng sinh tuyến, nang, giãn ống dẫn sữa) không làm tăng nguy cơ ung thư vú.
(Nguồn: Internet)
U xơ tuyến: Khối u phát triển từ mô liên kết giữa các tiểu thuỳ có kích thước từ 2-3cm và thường xuất hiện ở phụ nữ trước 35. U xơ tuyến vú thường chỉ có 1u, đôi khi có nhiều u và xuất hiện kế tiếp theo thời gian. Khối u thường có kích chắc, xơ, đều, tròn hoặc hình trứng, di động dưới da, không đau, không liên quan với chu kỳ kinh. U xơ tuyến không tạo nên yếu tố nguy cơ gây ung thư, thường ổn định và không đáp ứng với phương pháp điều trị nội tiết mà phải điều trị bằng
phương pháp dùng thuốc trị u hoặc phương pháp phẫu thuật khi u to và phát triển nhanh
Dãn ống dẫn sữa: Dãn các ống dẫn sữa là một quá trình diễn tiến thông thường nhưng ít kèm theo các dấu hiệu lâm sàng khó chịu. Đây là sự dãn không đặc hiệu các ống dẫn sữa dưới quầng vú và thường gặp ở độ tuổi 25-50. Triệu chứng thường gặp là tiết dịch ở núm vú, có thể gặp một bên hoặc 2 bên, tiết dịch tự nhiên, thường là dịch trong hoặc xám. Các áp-xe quanh quầng vú tái phát là một biến chứng của dãn ống dẫn sữa.
U nhú trong ống dẫn sữa: Đó là sự tăng sinh biểu mô trung tâm trên trục liên kết và phát triển trong lòng ống dẫn sữa. Về mặt tổ chức học, các u nhú hình thành các lá nhú với các hạt xơ và có biểu mô tăng sinh bao phủ. Thêm vào đó, thường thấy các vùng đặc, hoặc thành ổ hoặc thành mảng rõ. Biểu mô tăng sinh bao gồm các tế bào biểu mô và cơ-biểu mô. Triệu chứng thường gặp là tiết dịch hoặc máu tự nhiên một hoặc 2 bên vú,... Ép xung quanh quầng vú có thể thấy dịch chảy ra từ núm vú.
U mỡ: Là sự tăng sinh của các tế bào mỡ, tạo nên khối u có vỏ bọc. Hình ảnh siêu âm của u mỡ giống như mô mỡ tuyến vú, phản âm kém, đồng nhất dễ nén ép. Khối u đường kính 35mm, bờ rõ nhẵn, cấu trúc đồng nhất.
U Túi sữa: Nếu tắc ống dẫn sữa trên một bệnh nhân đang cho con bú có thể đưa đến sự tạo thành u bọc dịch chứa sữa, gọi là túi sữa. Người bệnh nên chọc hút để chẩn đoán và có cách điều trị hợp lý.
-
CÁCH ĐIỀU TRỊ U VÚ LÀNH TÍNH
Bác sĩ sẽ hướng dẫn cách điều trị dựa trên kết quả siêu âm, tuổi tác, kích thước, tình trạng của u vú và sức khỏe của người bệnh. Có 2 cách thường được áp dụng như sau:
+ Dùng thuốc:
- Thuốc điều chỉnh nội tiết để đưa tỉ lệ estrogen, progesteron, prolactin về bình thường ở mức thích hợp, cân bằng nội tiết tố và điều hòa kinh nguyệt.Tuy nhiên, phương pháp này chỉ có thể giúp hạn chế cho u vú không tăng sinh về kích thước và số lượng chứ không không điều trị triệt để.
+ Phẫu thuật
Phẫu thuật loại bỏ u ở vú thường áp dụng đối với những khối u lớn hoặc khối u đang gây những biến chứng cho người bệnh. Phẫu thuật có thể làm mất u vú ngay lập tức nhưng không triệt để và có khả năng tái phát sau đó.
Phụ nữ ở bất kỳ độ tuổi nào cũng có khả năng mắc u vú, do đó cần thường xuyên kiểm tra tình hình sức khỏe để phát hiện và điều trị kịp thời. Nên có biện pháp
phòng ngừa những nguy cơ mắc bệnh xảy ra với mình. Ngoài ra, khi mắc bệnh, người bệnh không nên chủ quan mà cần phải theo dõi vì có khả năng u vú sẽ phát triển nhanh ảnh hưởng đến chất lượng sống, nguy hiểm hơn là chuyển thành ung thư.
-st-